THIẾT KẾ MÁY SÀNG THÔ, ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP SÀNG THÔ, , thuyết minh THIẾT KẾ MÁY SÀNG THÔ, động học máy SÀNG THÔ, kết cấu máy SÀNG THÔ, nguyên lý máy SÀNG THÔ, cấu tạo máy SÀNG THÔ, quy trình sản xuất SÀNG THÔ,
CHƯƠNG I: TÌM HIỂU VỀ MÁY SÀNG THÔ
Máy sàng thô là một thiết bị dùng để sàng hỗn hợp nhiều loại nguyên nhiên, vật liệu thành một loai đồng nhất. Trong đó độ đồng đều của sản phẩm sau khi sàng là một trong những tiêu chí cơ bản đánh giá chất lượng và hiệu quả của máy sàng thô.
1.1/ Công dụng:
Trong dây chuyền sản xuất hóa chất, dược phẩm, xây dựng và thức ăn gia súc. Đặc biệt là trong xí nghiệp chế biến thức ăn tổng hợp công nghiệp thường dùng nhiều máy sàng thô để thu được sản phẩm riêng biệt nhiều thành phần có tỷ lệ nhất định được sàn lọc với nhau và phân bố đều. Các thành phần này được định lượng chính xác ngay từ ban đầu nhưng nếu không được đưa qua máy sang thô làm việc có hiệu quả thì chưa chắc đã thu được sản phẩm, sau khi sàng chia thành lượng nhỏ lại chứa đủ các tỷ lệ thành phần theo yêu cầu.
Quá trình sàng thô chỉ kết thúc và hiệu quả khi mỗi mẫu kiểm tra đều có tỷ lệ các thành phần đưa vào sàng lọc theo công thức định trước. Nhưng thực tế đối với nhiều loại sản phẩm thì hiệu quả sàng phụ thuộc vào độ lớn hạt, khối lượng riêng, độ ẩm và một số tính chất kết cấu khác của vật liệu sàng. Do đó quá trình sàng thô không đạt được mức đồng đều tuyệt đối.
1.2/ Yêu cầu kỹ thuật các máy sàng thô thức ăn:
Máy sàng thô thức ăn gia súc dùng để sàng các loại thức ăn thành một loại về thành phần và tỷ lệ thành phần thức ăn có thể là khô hay ẩm, lỏng đảm bảo cho gia súc, gia cầm ăn đầy đủ chất dinh dưỡng cần thiết mà chúng ta muốn cung cấp cho chúng.
Thức ăn hỗn hợp có tạp chất được sàng đều sẽ bổ sung chất lượng, mủi vị giữa các thành phần, kích thích cho gia súc ăn nhiều và đầy đủ các thức ăn cần thiết, tăng chất lượng thức ăn, nhờ đó tăng sản lượng chăn nuôi . Do vậy vấn đề đặt ra cho máy sàng thô là:
- Đảm bảo độ sàng cao nhất tùy theo mỗi đối tượng gia súc, gia cầm ở từng lứa tuổi khác nhau.
- Đáp ứng sàng thức ăn khô, ẩm khác nhau theo yêu cầu của các cơ sở sản xuất
- Năng suất phù hợp, chi phí năng lượng riêng thấp
- Sử dụng thuận tiện, chăm sóc dễ dàng, an toàn lao động và máy
1.3/ Phân loại máy sàng thô:
Có nhiều cách phân loại máy sàng thô:
Phân loại theo cách bố trí bộ phần làm việc gồm các máy :
+ Máy sàng thô nẳm ngang
+ Máy sàng thô thẳng đứng
+ Máy sàng thô nằm nghiêng
Phân loại theo tỷ lệ ẩm ướt chứa trong hỗn hợp thức ăn, dạng này được chia thành 3 loại:
+ Máy sàng thức ăn dạng hỗn hợp khô (máy sàng khô, roi)
+ Máy sàng thức ăn dạng hỗn hợp dạng ẩm (máy sàng ẩm )
Phân loại theo nguyên tắc làm việc : Máy sàng có bộ phận quay và máy sàn kiểu thùng quay
1.4/ Các loại máy sàng thô:
Sàng thô vật liệu rắn, rời là trường hợp đặc biệt thường được sử dụng trong các quá trình công nghệ khác nhau: Sản xuất Siment, sản xuất sơn mài, luyện kim, hóa chất,… đặc trưng của quá trình sàn khác rất nhiều so với quá trình khuấy, đó là do hệ chỉ gồm các hạt rắn hợp thành pha hạt (pha vật liệu rời) có một loại tính chất đặc trưng khác hẳn pha lỏng.
1.4.1/ Cơ chế sàng:
Sàng là quá trình kết hợp các khối lượng của các vật liệu khác nhau để nhận được một sản phẩm có sự phân bố đồng nhất của các phần tử ở mỗi vật liệu trên toàn khối hỗn hợp. Người ta có thể căn cứ vào độ ẩm của hỗn hợp mà chia thành :
- Sàng khô, độ ẩm < 20%
- Sàng ẩm, độ ẩm 20 60%
Khi sàng vật liệu dạng hạt rời chúng chịu tác dụng của những lực có hướng khác nhau và chuyển động của vật liệu chính là hệ quả của tổng hợp các lực đó . Ngoài ra, cơ chế quá trình sàng còn phụ thuộc vào cấu trúc máy sàng và phương pháp tiến hành quá trình nên rất khó mô tả bằng toán học. Trong máy sàng thường có 5 quá trình cơ bản xảy ra trong khi sàng.
- Tạo các lớp trượt với nhau theo các mặt phẳng – sàn cắt
- Chuyển dịch một nhóm hạt từ vị trí này tới vị trí khác – sàn đối lưu
- Thay đổi vị trí thanh từng hạt riêng rẽ - sàn khuếch tán.
- Phân tán từng phân tử do va đập vào thành thiết bị sàng
Tùy theo dạng kết cấu của máy sàng mà có thể xuất hiện một hoặc một số trong 4 quá trình trên khi sàng vật liệu rời
1.4.2/ Các loại máy sàng thùng quay:
Máy sàng thùng quay được sử dụng rất rộng rãi trong các ngành công nghiệp. Trong công nghiệp hóa học sử dụng để sàng các phân liệu, trong công nghiệp thực phẩm để sàn các loại hạt và trong công nghiệp xây dựng để sàn các loại cát, đá,.. Yêu cầu của vật liệu đưa vào sàng phải rời , xốp , độ kết dính nhỏ và cho phép làm sứt mẻ. Máy sàng làm việc chủ yếu là gián đoạn, nhưng đối với thùng nằm ngang cũng có thể làm việc liên tục, cấu tạo của máy gồm : Thùng sàng, bộ phận dẫn động và bộ phận đỡ.
Các dạng thùng sàng của máy sàn thùng quay
Thùng quay có nhiều cách bố trí và nhiều hình dạng khác nhau để tạo dòng vật liệu chuyển động khác nhau theo yêu cầu công nghệ.
- Máy sàng thùng quay hình trụ thẳng đứng
- Máy sàng thùng quay hình trụ nằm ngang
Các máy này chế tạo đơn giản, lắp ráp dễ dàng. Nhưng để sàng mãnh liệt hơn người ta dùng máy sàng lục giác nằm ngang
- Máy sàng thùng quay có đáy hình côn. Loại này dùng để sàn các vật liệu không cho phép nghiền
- Máy sàng thùng quay hình trụ nghiêng. Loại này sàng rất nhanh và chất lượng cao. Quá trình sàng ở đây vừa sàng theo chiều trục lẫn sàn theo hướng kính, cả sàng khuếch tán lẫn sàn đối lưu, va đập và nghiền.
- Máy sàng thùng quay hình chữ V . Loại này dùng trong trường hợp sàng với hiệu quả cao. Ngoài những quá trình sàng nêu trên ở đây còn có thêm quá trình sàng cắt, nghĩa là tồn tại cả 4 quá trình sàng.
1.5/ Các yếu tố ảnh hướng đến quá trình sàng đều:
Yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sàng đều bao gồm :
- Vận tốc sàng
- Thời gian sàng
- Cấu tạo của bộ phận sàng
- Tính chất cơ lý của vật liệu sàn
- Ngoài ra đối với các loại máy sàng thô dạng lưới thì các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình sàng phụ thuộc vào hình dạng, cách bố trí và số lượng các lưới …
1.6/ Máy sàng ngang:
Là loại máy sàng có lưới một trục nằm ngang làm việc liên tục hoăc chu kỳ. Loại máy sàng này có thể sàng tạo nên vật liệu riêng biệt từ nhiều thành phần, cũng như tạo ra nguyên liệu đơn nhất ở thể khô và thể dẻo. Việc tạo khô có thể tiến hành bằng gió hoặc sấy khô có áp lực thấp. Có thề nâng cao chất lượng sản phẩm khi dùng sấy khô có áp lực thấp. Năng suất được coi là thông số chính của máy.
......................................................................
1.6.1/Nguyên lý hoạt động máy sàng ngang:
Sơ đồ nguyên lý làm việc của máy sàn ngang
Nguyên lý hoạt động của máy tương đối đơn giản. Nguồn điện 3 pha được cấp vào động cơ che kín 3 pha với công suất là N=1.5 kw, số vòng quay n=1450 vòng/phút truyền qua cặp bánh đai với tỷ số truyền làm cho số vòng quay giảm ở bánh đai bị động. Bánh đai bị động được gắn trực tiếp với hộp giảm tốc, thông qua hộp giảm tốc, số vòng quay trục ra của hộp giảm tốc sẽ phù với việc tính toán sang, trục này gắn với trục sàng, thông qua mối ghép xích đôi và việc sàn thức ăn gia súc sẽ được thực hiện trong thùng sàng khi đổ liệu vào.
1.7/ Sàng:
Sàng là quá trình phân loại một hỗn hợp vật liệu rời thành các lớp có kích thước khác nhau. Sàng được sử dụng nhiều trong các xí nghiệp sản xuất ngũ cốc , chế biến thức ăn gia súc, cơ sở sản xuất chè…
Theo cấu tạo của các bộ phận làm việc thì các máy sàng được chia ra làm hai nhóm: với mặt sàng phẳng và mặt sàng hình trụ. Những máy sàng với lưới phẳng chuyển động rung hoặc chuyển động tịnh tiến tròn là những máy được sử dụng nhiều nhất trong thực tiễn sản xuất. Các máy sàng với lưới chuyển động tròn thường dùng để kiểm tra phế liệu của hạt. Những máy sàng dùng để phân riêng các thành phần hạt có cùng kích thước và chất lượng gọi là sàng phân loại.
Ở các nước có nền công nghiệp phát triển như Mỹ, Đức, Nga... nói chung các loại máy sàng thường được quy chuẩn hóa và sản xuất hàng loạt. Ở nước ta mới chỉ được chế tạo đơn chiếc.
Phương pháp chủ yếu để phân loại vật liệu là cho vật liệu lên một bề mặt có lỗ và làm cho nó chuyển động. Những cục vật liệu nào có kích thước bé hơn kích thước của lỗ sẽ lọt qua, còn các cục khác có kích thước lớn hơn kích thước của lỗ thì còn lại trên mặt lưới.
Sự phân loại có thể tiến hành theo các kích thước từ nhỏ đến lớn. Thuộc trường hợp này kích thước lỗ to dần theo chiều dài của mặt sàng (cũng là chiều dài của nguyên liệu chảy) và sàng thường bố trí nối tiếp. Phương pháp này có ưu điểm là cấu tạo sàng đơn giản, dễ tháo lắp, song bị hạn chế sử dụng do mặt bằng lắp đặt máy đòi hỏi diện tích rộng và lượng phân loại thấp, mặt sàng chóng mòn.
Phân loại theo kích thước từ lớn tới nhỏ có thể bố trí các lưới sàng xếp chồng. Theo phương pháp này, chất lượng phân loại tốt, mặt sàng lâu mòn nhưng tháo lắp sàng khó.
Để khắc phục những nhược điểm của hai phương pháp phân loại trên và phát huy được những ưu điểm của chúng , ta có thể kết hợp cả hai phương pháp phân loại, có nghĩa là sàng vừa bố trí nối tiếp, vừa xếp chồng.
Bề mặt làm việc của sàng là bộ phận chính để phân loại các vật liệu.Các loại mặt sàng thường dùng là:
- Lưới đan: loại này sử dụng để sàng mịn và sàng nhỏ các vật liệu xốp, rời khô. Lưới đan có các lỗ dạng hình vuông, hình chữ nhật hoặc hình lục giác. Sợi để đan thành lưới thường là sợi nilông, dây đồng, dây thép có đường kính nhỏ hơn kích thước của sản phẩm dưới sàng.
- Tấm đục lỗ: loại này là những tấm bằng thép hay đồng, trên bề mặt đục các lỗ hình tròn, hình vuông, hình chữ nhật hoặc hình bầu dục.
Sau đây ta đề cập tới một số máy sàng được sử dụng phổ biến trong các nhà máy và xí nghiệp sản xuất lương thực , thực phẩm và chế biến thức ăn gia súc.
1.8/ Máy sàng lắc:
Trong sản xuất lương thực thưc phẩm hiện nay thì máy sàng có mặt sàng phẳng chuyển động tịnh tiến qua lại được sử dụng nhiều hơn cả. Các máy này được chế tạo theo nhiều kiểu khác nhau, mà điển hình là hai loại sau.
- Máy sàng lắc phẳng:
Để cho sàng làm việc được thì yêu cầu vật liệu trên lưới sàng phải chuyển động theo một dòng liên tục. Khi sàng tiến thì vật liệu cũng tiến (lực quán tính phải nhỏ hơn lực ma sát). Còn khi sàng lùi thì vật liệu sẽ trượt tương đối trên bề mặt của sàng (lực quán tính lại phải lớn hơn lực ma sát). Như vậy cần phải tạo ra cho sàng có gia tốc tiến và gia tốc lùi khác nhau, thông qua bộ phận truyền động bằng tay quay thanh truyền hoặc cơ cấu lệch tâm.
Máy sàng lắc phẳng có ưu điểm là năng suất và hiệu suất của sàng cao. Cấu tạo đơn giản, giá thành hạ, sử dụng và sữa chữa tiện lợi.
Nhưng nó cũng có nhược điểm là khối chuyển động có cấu tạo không cân bằng cho nên gây ra tải trọng động lớn có ảnh hưởng tới bệ máy.
Muốn tiến hành quá trình sàng được tốt thì lớp hạt phải luôn luôn bám sát vào lưới sàng và trượt lên trượt xuống được . Điều này liên quan tới số vòng quay của bộ phận gây dao động.
1 - Đối với lưới sàng nghiêng dao động dọc theo đường thẳng nằm ngang, điều kiện cần để đạt chuyển động trên lưới lên phía trên là:
....................................................
- Máy sàng phân loại bằng lưới sàng và không khí: dùng để làm sạch và phân riêng hạt.
Theo chiều cao của máy có thể chia ra ba phần:
1) Vùng phân loại bằng không khí để làm sạch hạt;
2) Thùng sàng để phân hạt theo độ lớn thành ba phần hạt riêng biệt;
3) Vùng phân loại bằng không khí để chia từng loại hạt theo độ lớn và thành các phần riêng theo tính chất khí động lực;
Hạt đi vào buồng chứa dữ liệu, quạt hút không khí kéo sản phẩm vào ống dẫn và cuốn theo các hỗn hợp nhẹ đối với khí động lực. Những hỗn hợp này được lắng vào buồng lắng và từ đấy chúng được tách ra khỏi máy. Không khí sạch ở trong buồng lắng được quạt thổi lần thứ hai để làm sạch hạt. Như vậy quạt được làm việc theo nguyên tắc tuần hoàn kín của dòng không khí.
Ở thùng sàng khối hạt được phân ra một số thành phần hạt khác nhau theo chiều rộng và chiều dày của hạt.
Tất cả những thành phần này đi vào những ngăn khác nhau của vùng phân loại bằng không khí ở phía dưới. Quạt hút không khí qua lớp sản phẩm đang trượt theo mặt phẳng nghiêng. Tương ứng với các vận tốc của không khí khác nhau, tại những ngăn riêng của buồng lắng có các hỗn hợp khoáng, hạt bẩn, hạt sạch và hỗn hợp nhẹ được lắng xuống.
Thùng sàng chuyển động tịnh tiến qua lại nhờ tay quay thanh truyền hoặc cơ cấu lệch tâm.
Năng suất của lưới sàng được tính như sau:
Q = . f, kg/h (2 – 22)
Trong đó: f - diện tích mặt sàng, d ;
– năng suất riêng (năng suất trên một đơn vị diện tích mặt sàng ), kg/d h.
Khi tính năng suất theo (2 – 22) cần chú ý chọn năng suất riêng của mặt sàng cho thích hợp. Năng suất riêng của mặt sàng có thể giảm đi một nửa nếu độ ẩm của hạt từ 15%, tăng lên 26%. Độ rác bẩn của hỗn hợp cũng có ảnh hưởng tới năng suất của mặt sàng.
Công suất cần thiết cho các máy chuyển động tịnh tiến qua lại có thể xác định theo công thức:
= ; kW (2 – 23)
Trong đó: M – khối lượng của các thành phần chuyển động tịnh tiến qua lại của máy sàng, kg.
– vận tốc góc của tay quay hoặc cơ cấu lệch tâm của bộ phận truyền động thùng sàng, 1/s;
r - bán kính lệch tâm hoặc chiều dài của tay quay, m;
1.9/ Máy sàng rung:
Trong sản xuất lương thực và thực phẩm người ta sử dụng máy sàng rung để phân loại nguyên liệu, vận chuyển vật liệu , làm tơi và làm nguội vật liệu.
Thường có hai loại cơ cấu gây rung động cho máy sàng rung là đĩa có gắn đối trọng và cơ cấu lệch tâm. Trong loại cơ cấu thứ nhất, các đĩa có đối trọng được gắn trên trục dẫn động của máy. Khi trục quay thì các đĩa này gây nên các lực quán tính làm cho thùng sàng chuyển động theo các hướng khác nhau. Ở loại cơ cấu thứ hai, trục lệch tâm của máy được tựa trên các gối đỡ. Các gối đỡ này lại được gắn vào thùng sàng. Khi máy làm việc thì thùng sàng sẽ thực hiện chuyển động rung nhờ sự quay của trục lệch tâm. Sự rung động được tạo thành nhờ đối trọng quay, ở lưới trên các tạp chất lớn được tách ra, còn ở lưới dưới là các tạp chất nhỏ.
Sàng rung được đặc trưng bưởi tầng số dao động cao (1000 3000 lần dao động trong 1 phút) với biên dộ dao động nhỏ(2 0.5 mm). Thùng sàng có gắn lưới sàng tựa trên 4 lò xo xoắn thẳng đứng. Các chi tiết dùng để lắp ghép các lò xo với thùng sàng cho phép điều chỉnh mức độ kéo căng của chúng.
Tại trọng tâm của thùng sàng có trục và trên trục và trên trục này có gắn đối trọng.
Khi trục mang đối trọng quay thì trọng tâm của thùng sàng chuyển dịch tương đối đối với trọng tâm của toàn hệ, còn trọng tâm của toàn hệ thì đứng yên.
Năng suất của máy sàng rung có thể xác định theo công thức:
Q=B.q, Kg/h (2 – 24)
Trong đó:
B - chiều rộng của mặt sàng, cm
q - tải trọng riêng của mặt sàng, kg/cmh
Đối với máy sàng rung, muốn làm sạch hạt đạt được hiệu quả công nghệ cao cần phải có những giá trị thích hợp về biên độ, tần số dao động, về tải lượng riêng và độ dốc của lưới sàng (bảng 2.1).
Bảng 2.1. Trị số các thông số thích hợp của máy sàng rung
Nguyên liệu cần làm sạch |
Các thông số thích hợp |
|||
Biên độ mm |
Số vòng quay trong 1 phút |
Độ dốc của lưới sàng |
Tải lượng riêng kg/dm ph |
|
Lúa mì Đại mạch Kê |
3 |
1250 |
8 |
14 |
3.5 |
1200 |
8 |
13 |
|
1.5 |
1850 |
8 |
8 |
1.10/ Máy sàng quay:
Trong sản xuất có những nguyên liệu và sản phẩm không thể phân loại trên các máy sàng phẳng chuyển động tịnh tiến qua lại như tấm, cám hoặc vật liệu dạng bột… Muốn phân loại những vật liệu như vậy, phải dùng máy sàng quay.
Máy sàng quay được dùng phổ biến trong công nghiệp thực phẩm để kiểm tra nguyên liệu, kiểm tra bán thành phẩm và kiểm tra phế liệu.
Bộ phận làm việc chủ yếu của máy sàng này là thùng sàng hình lục lăng nằm nghiêng một góc 5 100 so với mặt phẳng ngang và thực hiện chuyển động quay đều với vận tốc vòng khoảng 1,2 1,6 m/s.
Nguyên liệu đi vào máy sàng qua cưa nạp liệu rồi xuống vít tải nạp liệu. Nhờ vít tải này mà nguyên liệu được đẩy đều đặn vào máy để thực hiện quá trình sàng. Phần lọt sàng rơi xuống các tấm hướng liệu, qua nam châm và được vít tải để vận chuyển bột đưa ra khỏi máy, còn phần trên sàng, dưới tác dụng của lực trọng trường được chuyển dịch về phía cuối cùng máy rồi đi ra ngoài theo ống thoát tạp chất.
Kiểu máy sàng quay với thùng sàng nằm nghiêng một góc 5 100 so với mặt phẳng ngang gây ra một số bất tiện cho kết cấu truyền động của máy. Vì thế trong các cấu tạo hiện nay thùng sàng được bố trí nằm ngang, còn vật liệu thì chuyển dịch dọc theo mặt lưới sàng nhờ các thanh gạt nằm nghiêng hoặc thùng sàng được chế tạo theo dạng hình chóp cụt, hình nón cụt hoặc lục lăng. Quá trình sàng một cách mãnh liệt nhờ có hiện tượng va đập của các hạt khi rơi từ mặt lưới này qua mặt lưới khác.
Thùng sàng dạng hình nón cụt hoặc trụ cho phép dùng cơ cấu bàn chải để làm sạch mặt lưới.
Năng suất của máy sàng có thể tính theo công thức:
Q= 720 .n.tg , t /h (2 – 25)
Trong đó:
- khối lượng thể tích của vật liệu đem sàng, t/
– độ dốc của mặt sàng (đối với những thùng sàng là hình nón cụt hoặc hình chóp cụt có trục quay nằm ngang và thùng sàng hình lục lăng hoặc hình trụ đặt nằm nghiêng) hoặc góc nghiêng của thanh gạt đối với đường sinh của thùng sàng (nếu thùng sàng là hình lục lăng hoặc hình trụ đặt nằm ngang).
R - khoảng cách từ trọng tâm khối vật liệu trong thùng sàng đến tâm trục quay, m;
h – chiều cao của lớp vật kiệu trong thùng sàng, m.
Trên cơ sở của những số liệu thực nghiệm người ta cũng có thể xác định được năng suất của máy theo năng suất riêng q của mặt sàng. Nếu làm sạch tạp chất lớn trong khối hạt thì lấy q = 500 600 kg/ h, nếu làm sạch tạp chất nhỏ trong khối hạt thì lấy q = 200 300 kg/m2h, khi cần phân lọai phế liệu thì lấy q = 100 150 kg/m2h
1.11/ Rây:
Máy rây dùng để phân loại các sản phẩm nghiền từ hạt, các loại bột mịn.
Bộ phận chủ yếu của máy là thân rây, gồm những thanh gỗ xếp cái nọ trên cái kia. Trên các khung được căng những lưới nằm ngang. Lưới được làm bằng:
- Tơ đan: có ưu điểm là lỗ rây nhỏ, không sinh nhiệt khi ma sát. Nhưng nhược điểm là hút ẩm làm bịt kín lỗ;
- Kim loại: không hút ẩm, song sinh nhiệt khi ma sát;
- Kapơzông: không sinh nhiệt và không hút ẩm, nhưng đàn hồi.
Thân rây thực hiện chuyển động tịnh tiến tròn trong mặt phẳng ngang. Sản phẩm nghiền được dịch chuyển từ trên xuống dưới, từ khung này chuyển xuống khung khác và được rây (được phân riêng ra một số thành phần khác nhau về độ lớn của hạt).
Theo nguyên tắc cân bằng của các khối lượng chuyển động tịnh tiến và theophương pháp treo của các con lắc người ta chia các loại máy rây ra như sau:
1) Máy rây có tay quay, trong đó trục của các con lắc quay trong các ổ trục cố định của đế máy.
2) Máy rây tự cân bằng có trục dẫn động cứng trong đó trục của các con lắc nối cứng với cọc treo vào trần nhà nhờ cụm ổ trục.
3) Máy rây tự cân bằng có trục dẫn động cứng, trong những máy rây này trục của các con lắc được tựa lên ổ trục của khung chính.
Theo số thân máy, người ta chia ra máy rây một thân, hai thân và nhiều thân.
Cấu tạo chung của máy rây hai thân:
Khi cọc trục quay thì trục mang các con lắc chuyển vị 4 - 5mm đối với đường trục của cọc trục, vẽ thành một bề mặt hình trụ, còn tâm của ổ trục dưới bắt chặt trên khung chính sẽ chuyển động trong mặt phẳng ngang theo vòng tròn với bán kính p = 45mm. Những quỹ đạo tương tư được vẽ lên bởi tất cả những điểm của khung chính đang thực hiện chuyển động tịnh tiến vì những thanh treo cản trở nó quay. Khi máy rây làm việc thì các lực quán tính của khung chính và những thân rây gắn trên nó được cân bằng bằng các lực quán tính ly tâm của các tải trọng quay. Trong điều kiện sử dụng máy bình thường, phản lực ngang của những thanh treo và cọc trục thực tế được cân bằng lẫn nhau.
THIẾT KẾ MÁY SÀNG THÔ, ĐỒ ÁN TỐT NGHIỆP SÀNG THÔ, , thuyết minh THIẾT KẾ MÁY SÀNG THÔ, động học máy SÀNG THÔ, kết cấu máy SÀNG THÔ, nguyên lý máy SÀNG THÔ, cấu tạo máy SÀNG THÔ, quy trình sản xuất SÀNG THÔ,